- 点击了解产品: 2022-09-06 10:31:35
- 编辑作者: 鸿泰华瑞
- 阅读: 3266
- 关键字: mục tiêu, tỷ lệ quản trị, nông thôn, nước thải sinh hoạt, quản trị
Nghiên cứu cho thấy, hiện nay ở một số địa phương, xử lý nước thải sinh hoạt ở nông thôn phải đối mặt với những khó khăn thực tế như cơ sở công tác yếu, quản lý bảo trì yếu kém. Một số thôn hành chính tuy đã xây dựng xong các thiết bị xử lý nước thải, nhưng do cơ chế quản lý bảo vệ vận hành các thiết bị không đúng chỗ, tồn tại các vấn đề như thêm thuốc không kịp thời, trong bể khí không có bùn hoạt tính, vấn đề xây dựng không sử dụng, sử dụng không quản lý, quản lý mà thiếu tiền nổi bật.“” Ngoài ra, do lựa chọn mô hình công nghệ quản lý không phù hợp, mạng lưới đường ống không phù hợp, tỷ lệ thu thập thấp, cộng với việc thiếu hỗ trợ lực lượng kỹ thuật chuyên nghiệp và bảo đảm kinh phí vận hành ổn định, dẫn đến việc không thể sử dụng hoặc nhàn rỗi lâu dài sau khi xây dựng cơ sở, lợi ích môi trường khó phát huy đầy đủ.
So với xử lý nước thải sinh hoạt ở đô thị, thành phần nước thải sinh hoạt ở nông thôn đơn giản hơn, yêu cầu kỹ thuật xử lý tương đối thấp. Tuy nhiên, do mức độ tập trung dân số, môi trường tự nhiên và mức độ phát triển kinh tế-xã hội của các nơi khác nhau khá lớn, dẫn đến tỷ lệ thu gom và xử lý nước thải sinh hoạt ở một số khu vực nông thôn nói chung khá thấp, tồn tại rất nhiều nước đen và mùi hôi, đã trở thành vấn đề khó khăn hạn chế cải thiện môi trường sống nông thôn.
Tính đến năm ngoái, tỷ lệ xử lý nước thải sinh hoạt ở nông thôn của Trung Quốc chỉ khoảng 28%, nhưng đến năm 2025, Trung Quốc sẽ tăng tỷ lệ xử lý lên 40%.
Theo dữ liệu của Bộ Xây dựng Nhà ở công bố trước đó. Năm 2016, tỷ lệ xử lý nước thải nông thôn của Trung Quốc là 22%, kéo dài 5 năm, tỷ lệ xử lý nước thải sinh hoạt nông thôn của Trung Quốc đã tăng 6%. Nói cách khác, tính từ bây giờ, thời gian hơn ba năm, về mặt nước thải nông thôn của nước ta phải nâng tiêu chuẩn lên 12%, đổi lại xem là nhiệm vụ trước đây có thể phải mất 10 năm thời gian hoàn thành, hiện tại chỉ cho chưa đầy 4 năm thời gian.
Xử lý nước thải sinh hoạt ở nông thôn có vấn đề
So với các thị trấn, thời gian triển khai dự án nước thải sinh hoạt ở nông thôn tương đối ngắn, điều kiện xây dựng phức tạp và thay đổi, lượng nước theo mùa biến động lớn. Do đó, trong quá trình xây dựng và vận hành dự án đã xuất hiện nhiều vấn đề mới, đại diện là vấn đề phê duyệt đất đai chậm trễ, quy mô thiết kế quá lớn và quản lý vận hành kém hiệu quả.
Việc phê duyệt đất đai bị trễ, trạm xử lý nước thải phân bố rải rác ở các thôn, số lượng nhiều, bản chất đất đai của trạm lại đa số là đất sở hữu tập thể, vì vậy hiện tượng dự án sau khi lựa chọn địa điểm không thể kịp thời nhận được ý kiến phê duyệt rất phổ biến, điều này dẫn đến khó khăn trong việc chấp nhận hoàn thành nhiều dự án. Người phụ trách chính cấp thành phố, huyện phải tích cực phối hợp với các bộ phận liên quan để xử lý kịp thời các thủ tục quy hoạch và đất đai
Quy mô thiết kế khá lớn, do kinh nghiệm thực tiễn của dự án ít, tham số kỹ thuật có thể tham khảo ít, đơn vị thiết kế thường dựa trên công nghệ xử lý nước thải đô thị tuyến đường kỹ thuật để thiết kế, do đó tạo ra quy mô thiết kế khá lớn, hiệu quả vận hành khá thấp, một số cơ sở vật chất và thiết bị nhàn rỗi hiện tượng.Điều này đòi hỏi các nhân viên nghiên cứu khoa học và kỹ thuật phải kịp thời tổng hợp kinh nghiệm thiết kế và vận hành, liên tục làm phong phú hướng dẫn thiết kế để đảm bảo tính chính xác của thiết kế.
Quản lý vận hành kém hiệu quả, trước năm 2015, toàn bộ các dự án nước thải sinh hoạt ở nông thôn đều do chính phủ đầu tư, hiệu quả xây dựng và vận hành khá thấp, xuất hiện hiện hiện tượng phần lớn các trạm nước thải vận hành thấp hoặc quản lý vận hành không đúng chỗ, nước thải dài hạn không đạt tiêu chuẩn. Trong giai đoạn sau, thông qua việc áp dụng mô hình nhượng quyền hoặc mô hình PPP và tiến hành đánh giá hiệu suất kịp thời, hiệu quả xây dựng và hiệu quả hoạt động đã được cải thiện hiệu quả thông qua các biện pháp thị trường. Trạm xử lý nước thải có thể vận hành tải trọng cao và đạt được mức phát thải tiêu chuẩn.
Làm thế nào để đạt được mức tiêu chuẩn thấp nhất 40% dưới áp suất?
Về vấn đề xử lý nước thải sinh hoạt ở nông thôn, ngành bảo vệ môi trường có một số nhận thức chung, đó là chu kỳ lợi nhuận xử lý nước thải nông thôn dài, quản lý phân tán không tập trung, mức độ phát triển tương đối thấp, vv. Mới đây, Giám đốc Sở Môi trường sinh thái đất, Bộ Môi trường sinh thái cũng từng cho rằng, cơ sở xử lý nước thải sinh hoạt ở nông thôn còn yếu, nhiệm vụ vẫn còn khó khăn.“”
Trên thực tế, năng lực phát triển, quản trị của các địa phương có sự khác biệt, một số tỉnh có khối lượng nhiệm vụ cần hoàn thành nhiều hơn vào năm 2025, mức tiêu chuẩn tỷ lệ quản trị có thể sẽ cao hơn 40%.
Ví dụ, Phúc Kiến trong "Kế hoạch hành động 5 năm nâng cao quản lý nước thải sinh hoạt nông thôn (2021-2025)" đề xuất tỷ lệ xử lý nước thải sinh hoạt nông thôn đạt 65%, "Kế hoạch bảo vệ môi trường sinh thái năm năm lần thứ 14" của Sơn Đông đề xuất mục tiêu tỷ lệ xử lý nước thải sinh hoạt nông thôn đạt 55%, "Ý kiến hướng dẫn về việc đào sâu hành động khắc nghiệt quản lý nước thải sinh hoạt nông thôn của tỉnh Quảng Đông" cũng xác định tỷ lệ xử lý nước thải sinh hoạt nông thôn của cả tỉnh phải đạt trên 60% vào năm 2025 Phân tích xem, công tác xử lý nước thải sinh hoạt ở nông thôn cần chú ý đến xử lý phân loại, phối hợp nhiều bên, cùng thúc đẩy nhiệm vụ hoàn thành đúng thời hạn và hiệu quả cao. “”……
Thứ nhất, vùng nông thôn có diện tích đất rộng, nơi cư trú khá phân tán, vấn đề đối với xử lý nước thải là tình hình thực tế của các địa phương không nhất quán, cần có các giải pháp quản lý có mục tiêu. Vì vậy, phân loại, phân vùng, phân chia các bước là rất cần thiết. Các chuyên gia trong ngành từng cho biết, thu thập thống nhất, xử lý tập trung là cách hiệu quả và kinh tế nhất để xử lý nước thải sinh hoạt, nếu khu vực đáp ứng điều kiện xử lý tập trung nước thải, có thể thực hiện quản lý thống nhất, xử lý tập trung nước thải sinh hoạt; ở khu vực dân số phân tán nên làm tốt các nội dung như thu thập phân loại, xử lý phân chất, sử dụng tài nguyên hóa nước thải sinh hoạt.
Thứ hai, nước thải sinh hoạt ở nông thôn nhấn mạnh sự phối hợp đa phương, tức là sự hợp tác ba bên giữa người dân, doanh nghiệp và chính phủ. Dân làng phát hiện, phản ứng, doanh nghiệp chỉnh sửa, quản trị, chính sách của chính phủ, hỗ trợ tài chính, góp phần tạo nên một chuỗi xử lý nước thải sinh hoạt tương đối hoàn chỉnh. & Cần phát huy đầy đủ vai trò của chính phủ, thị trường và người dân, ông Trưởng Sở Đất và Môi trường, Bộ Môi trường Sinh thái cho biết.”
Đề xuất thực hiện điều trị nước thải sinh hoạt ở nông thôn Đầu tiên, cần tăng tỷ lệ thu thập xử lý nước thải sinh hoạt ở nông thôn.
Cần xem xét đầy đủ các yếu tố như quy hoạch phát triển làng, khoảng cách mạng lưới đường ống đô thị, quy mô dân số và mức độ tập trung, điều kiện kinh tế, địa hình địa hình, tùy tình hình áp dụng các phương thức quản lý như đưa vào mạng lưới đường ống nước thải đô thị, xây dựng cơ sở xử lý tập trung hoặc phân tán. Thu thập thống nhất, xử lý tập trung là một trong những cách kinh tế nhất và hiệu quả nhất để xử lý nước thải sinh hoạt.Đối với khu vực nông thôn có dân số tương đối tập trung, có điều kiện xử lý nước thải tập trung, có thể tích cực thúc đẩy các cơ sở và dịch vụ xử lý nước thải đô thị mở rộng đến nông thôn, đưa nước thải sinh hoạt ở khu vực nối đô thị và nông thôn vào nhà máy xử lý nước thải đô thị.Ưu tiên lựa chọn phương thức xử lý nước thải phân tán hộ đơn hoặc hộ liên hộ phù hợp với mức độ chịu đựng tài chính cơ sở, mức độ chấp nhận của người dân, chi phí vận hành thấp, hiệu quả quản lý tốt, quản lý và bảo trì đơn giản, mở rộng diện tích thu thập nước thải sinh hoạt, mở rộng chuỗi xử lý.
Thứ hai, kiên trì nguyên tắc tìm kiếm sự thật thực tế, điều chỉnh theo điều kiện địa phương, tổng thể thúc đẩy công tác quản lý các nước đen mùi, cách mạng nhà vệ sinh và xử lý nước thải sinh hoạt. Học hỏi kinh nghiệm và thực tiễn của việc thực hiện xử lý tổng hợp tích hợp ở các khu vực tiên tiến, xác định hợp lý bố trí, quy mô và tuyến đường kỹ thuật xây dựng cơ sở xử lý nước thải sinh hoạt. Khuyến khích phổ biến công nghệ xử lý sinh thái áp dụng nhiều mô hình kết hợp như bể phân tử ba tầng, vi động lực, vùng ngập nước nhân tạo, thực hiện xử lý sâu, làm sạch nước thải, nước đen mùi, phân bẩn, đồng thời sử dụng nước phân sinh hoạt đạt yêu cầu sử dụng tài nguyên hóa để tưới tiêu đất nông nghiệp, nuôi trồng ngư nghiệp, trồng cây xanh làng mạc, thực hiện xử lý nước thải sinh hoạt vô hại và tài nguyên hóa.“”
Thứ ba, hoàn thiện hệ thống vận hành quản lý và bảo vệ lâu dài của các cơ sở xử lý nước thải. Xử lý nước thải nông thôn, ba phân xây dựng, bảy phân quản lý, phải nén chặt trách nhiệm của chính quyền địa phương và các bộ phận trách nhiệm, đơn vị quản lý vận hành. Kịp thời ban hành hướng dẫn kỹ thuật xử lý nước thải nông thôn có đặc điểm địa phương và tiêu chuẩn phát thải, xây dựng hệ thống xử lý nước thải nông thôn có tiêu chuẩn khoa học, tiêu chuẩn vận hành, giám sát hiệu quả. Khám phá và hoàn thiện cơ chế hỗ trợ của chính phủ, tham gia xã hội, chi trả và chia sẻ tiền của người sử dụng, khuyến khích thông qua hoạt động theo thị trường hóa, lấy xã làm đơn vị, đóng gói các cơ sở xử lý nước thải nông thôn, ủy thác các đơn vị chuyên nghiệp của bên thứ ba vận hành bảo trì quản lý, thực hiện hiệu quả các cơ sở xử lý nước thải sử dụng tối đa và vận hành ổn định.“”
Cuối cùng, tôi muốn nói với anh
Dưới phân tích, có thể nói rằng xử lý nước thải sinh hoạt ở nông thôn của Trung Quốc còn có không gian nâng cao khá lớn, tỷ lệ nhân tố lạc quan chiếm nhiều hơn. Niềm tin đạt được mục tiêu năm 2025 một lần nữa được làm đầy, tỷ lệ xử lý nước thải sinh hoạt ở nông thôn đạt 40%, khó khăn? Thật ra cũng không khó!